
Đồng Hồ Chronometer-Giải Mã Toàn Bộ Lịch Sử Và Những Bí Ẩn Xung Quanh
Những chiếc đồng hồ cao cấp thường có thêm dòng chữ “Chronometer” trên mặt số hoặc phần máy đã không còn xa lạ với chúng ta ngày nay. Mọi người chỉ đơn giản nghĩ rằng đó là thuật ngữ tượng trưng cho “chiếc đồng hồ chạy chính xác” và “đắt tiền”, nhưng đằng sau đó là cả một chuỗi những câu chuyện nối tiếp nhau tạo nên lịch sử của thuật ngữ “Chronometer” trên đồng hồ. Liệu rằng đồng hồ Chronometer có phải là đồng hồ được chứng nhận COSC hay Chronometer khác gì với Chronometre? Giờ hãy cũng tôi khám phá toàn bộ lịch sử và những bí ẩn xung quanh dòng chữ “Chronometer” trên đồng hồ qua bài viết bên dưới nhé!
1. Sự Hy Sinh Cả Đời Của Bậc Thầy Đồng Hồ Mr. John Harrison Để Tạo Nên Lịch Sử Chiếc Đồng Hồ Chronometer Đầu Tiên – Sự Tham Nhũng Của Hội Đồng Kinh Độ Hoàng Gia Anh:
“Chronometer” xuất phát từ tiếng Hy Lạp, trong đó χρόνος (chronos) nghĩa là thời gian và meter (nghĩa là đo lường). Như vậy “Chronometer” tạm dịch là “đo lường thời gian”, một ý nghĩa khá đơn giản!
Việc sử dụng thuật ngữ “Chronometer” được biết đến lần đầu tiên vào năm 1684 trong Arcanum Navarchicum, một công trình lý thuyết của giáo sư Kiel Matthias Wasmuth. Tiếp theo là mô tả lý thuyết sâu hơn về máy đo thời gian trong các công trình do nhà khoa học người Anh William Derham xuất bản năm 1713. Công trình chính của Derham là Physico-theology, hoặc một minh chứng về bản thể và các thuộc tính của Chúa từ các công trình sáng tạo của ông. Ông cũng đề xuất việc sử dụng những cỗ máy của đồng hồ chạy trong môi trường chân không để đảm bảo độ chính xác cao. Chronometer thời kỳ đầu là thuật ngữ dùng để mô tả những chiếc đồng hồ được sử dụng đi biển trong những hải trình dài. Trước đó, vào năm 1662, Mr. Christiaan Huygens đã thực viện việc chế tạo đồng hồ có thể chạy chính xác trên biển đầu tiên tại Pháp nhưng không thành công. Chính điều này đã kích thích Mr. Robert Hooke (người phát minh ra định luật Hooke) chế tạo đồng hồ đi biển. Tuy nhiên đến năm 1675 thì cả Mr. Christiaan Huygens và Mr. Robert Hooke đều thất bại.
Có lẽ tiền đề thực tế và lịch sử dẫn tới việc tạo ra “đồng hồ Chronometer” đầu tiên bắt đầu từ mùa thu năm 1707, trong Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha. Sau một cuộc vây hãm thất bại vào cảng Toulon của Pháp, Tổng tư lệnh Hải quân Hoàng gia Anh là Sir Cloudseley Shovell đã ra lệnh cho Hạm Đội Tàu của mình bao gồm 21 tàu chiến quay trở lại Portsmouth trên bờ biển phía Tây nước Anh. Khi đi qua Gibraltar vào cuối tháng 9 thì một cơn bão lớn đổ xuống khu vực này.
Ảnh từ en.m.wikipedia.org
Chuyện sẽ chẳng có gì xảy ra nếu như ở thế kỷ 21 và 22 khi chúng ta có định vị GPS và rất nhiều công cụ liên lạc, xác định phương hướng để hỗ trợ các tàu tránh bão, tìm đến đúng điểm hẹn, tránh đá ngầm!
Khi không có định vị GPS, ở thời điểm này, để xác định một vị trí chính xác trên bề mặt Trái đất cần phải biết được vĩ độ, kinh độ và độ cao. Đến giữa những năm 1750, việc điều hướng chính xác trên biển (khi vượt ra ngoài tầm nhìn từ đất liền) là một vấn đề lớn chưa được giải quyết do khó khăn trong việc tính toán kinh độ. Các nhà điều hướng (thuyền trưởng, hoa tiêu) có thể xác định vĩ độ của họ bằng cách đo góc của mặt trời vào buổi trưa (tức là khi nó đạt đến điểm cao nhất trên bầu trời, hoặc cực điểm) hoặc ở Bắc bán cầu, để đo góc của Polaris (sao Bắc cực) từ đường chân trời (thường vào lúc chạng vạng). Tuy nhiên, để tìm kinh độ, chúng ta cần biết Thời Gian Chính Xác trên tàu lúc đó!
Khi Trái đất quay với tốc độ dự đoán đều đặn, chênh lệch thời gian giữa đồng hồ trên tàu và giờ địa phương có thể được sử dụng để tính toán kinh độ của con tàu so với Kinh tuyến gốc (được định nghĩa là 0°) (hoặc một điểm xuất phát khác) một cách chính xác tương đối, sử dụng lượng giác cầu.
Ngay cả việc điều hướng bằng thiên thể (các ngôi sao) cũng cần phải có một chiếc đồng hồ chính xác khi kết hợp với các phép tính chiều cao, phương vị, biểu đồ của khu vực và bảng giảm thị lực.
Nếu cứ mỗi 4 giây mà đồng hồ trên tàu bị sai, thì vị trí Đông-Tây có thể lệch hơn 1 hải lý vì tốc độ góc của Trái đất phụ thuộc vào vĩ độ. Điều này không chỉ khiến một phần lớn đội tàu bị chệch hướng mà thời tiết xấu trong suốt chuyến đi còn khiến việc điều hướng qua các điểm mốc không thể thực hiện được.
Hạm đội đã cố gắng tập hợp lại vào đêm ngày 22 tháng 10. Thật bi thảm, người điều khiển thuyền buồm của Hạm Đội đã không thể xác định được chính xác thời gian trên tàu! Cả hạm đội đã đi chệch hướng hàng dặm và va đập vào những tảng đá ở Outer Gilstone Rock, Scilly Isles, ngoài khơi Corwall. Cả hạm đội bao gồm tất cả 1.550 người đã cùng nhau chìm trong cùng 1 “nấm mồ”(bao gồm cả Tổng tư lệnh Hải quân Hoàng gia Anh Sir Cloudseley Shovell). Chỉ có 13 thuỷ thủ được kéo ra từ đống đổ nát. Đây là một trong những thảm hoạ hàng hải tồi tệ nhất lịch sử nước Anh.
Tổn thất hải quân quá lớn! Điều này đã lật ngược tình thế của cuộc chiến, buộc Anh phải phòng thủ trong nhiều tháng để Hải quân Hoàng gia Anh bù đắp tổn thất của mình. Quốc hội Anh đã rất kinh hoàng trước những tổn thất của thảm họa Hải quân Scilly.
Chính vì vậy năm 1714, Quốc Hội Anh đã thông qua Đạo luật Kinh độ. Giải thưởng Longitude Prize là 20.000 bảng Anh (gần 5 triệu $ ngày nay) sẽ được trao cho bất kỳ ai có thể thiết lập được một hệ thống chính xác để xác định kinh độ trên một chuyến đi xuyên Đại Tây Dương.
Trong nhiều năm, những thợ đồng hồ giỏi nhất ở Đế quốc Anh đã cố gắng và thất bại. Giải thưởng vẫn chưa có người nhận. Câu chuyện về đồng hồ Chronometer hàng hải thật sự bắt đầu với cái tên John Harrison(1693-1776).
Ảnh từ en.m.wikipedia trích dẫn từ bản in nửa tông màu của P. L. Tassaert về bức chân dung gốc năm 1767 của Thomas King về John Harrison, được đặt tại Thư viện Hình ảnh Khoa học và Xã hội, London.
Năm 1730, Mr. John Harrison là một thợ đồng hồ tự học đến từ Lincolnshire, người đã tạo dựng được tên tuổi của mình bằng cách tạo ra các bộ phận tự bôi trơn cho những chiếc đồng hồ có bộ vỏ dài (thường là đồng hồ treo tường và để bàn). Mr. John Harrison đã thu hút được khá nhiều sự chú ý trong giới khoa học và nhanh chóng trở thành bạn của Nhà thiên văn học Hoàng gia Edmond Halley (người đã tính toán quỹ đạo của sao chổi Halley). Halley đã không ngừng động viên Harrison và giới thiệu ông với nhà sản xuất đồng hồ giàu có là George Graham. Graham bị ấn tượng bởi những ý tưởng thiết kế đồng hồ đi biển ban đầu của Harrison và ông đã trở thành người bảo trợ cho Harrison. Chính năm đó, Mr. John Harrison đã bắt tay vào việc tạo ra một thiết kế để giành giải Longitude Prize.
Nỗ lực đầu tiên của Mr. John Harrison là đồng hồ biển H1, một biến thể của đồng hồ quả lắc trước đó của ông. H1 được sửa đổi để chịu được chuyển động, không khí “ẩm, mặn” và sự thay đổi nhiệt độ mạnh mẽ của đại dương. H1 đã mất 5 năm lắp ráp và thử nghiệm trên đất liền trước khi ông sẵn sàng thử nghiệm trên biển. Vào cuối năm 1736, Hội đồng Kinh độ Hoàng gia Anh đã phê duyệt thiết kế của Mr. John Harrison để thử nghiệm trên biển, đồng thời gửi cả ông và đồng hồ của mình đến Lisbon, Bồ Đào Nha gặp HMS Orford để thử nghiệm trong chuyến trở về Anh.
Ảnh từ rmg.co.uk trích dẫn chiếc đồng hồ H1 Chronometer đầu tiên của Mr. John Harrison.
Bậc thầy chèo thuyền giàu kinh nghiệm của tàu Orford, lập biểu đồ chuyến đi theo truyền thống, đã tính toán sai điểm đến của tàu là 60 dặm. Các thuyền viên khác, lập biểu đồ với sự hỗ trợ của H1, đã dự đoán chính xác cách tiếp cận của tàu Orford. Cả thuyền trưởng và thuyền viên của tàu Orford đều vô cùng ấn tượng về chiếc đồng hồ H1 của Mr. John Harrison và đã đề xuất thiết kế này với Board of Longitude (Hội đồng kinh độ). Hội đồng kinh độ đã từ chối cấp cho Mr. John Harrison toàn bộ giải thưởng 20.000 bảng Anh, vì ông đã không đáp ứng đúng yêu cầu xuyên Đại Tây Dương, nhưng đã cấp cho ông khoản tài trợ nghiên cứu 500 bảng Anh để tiếp tục công việc của mình.
Không hề từ bỏ, Mr. John Harrison đã dành 22 năm tiếp theo để hoàn thiện đồng hồ biển của ông. Hai lần tiếp theo là các phiên bản H2 và H3, ông đã tăng thêm độ chắc chắn và tính di động hơn cho thiết kế.
Ảnh từ rmg.co.uk trích dẫn chiếc đồng hồ H2 Chronometer của Mr. John Harrison.
Ảnh từ rmg.co.uk trích dẫn chiếc đồng hồ H3 Chronometer của Mr. John Harrison.
Nhưng Mr. Harrison càng tinh chỉnh, ông càng nhận ra rằng khái niệm này về cơ bản đều thiếu sót điều gì đó. Mặc dù Mr. Harrison đã trang bị cho những cỗ máy từ H1 đến H3 các bộ phận cân bằng lớn để chống lại những đợt cuộn sóng đại dương, tuy nhiên bộ phận cân bằng của đồng hồ rung quá chậm để có thể ổn định được thời gian hiện hành.
Sau đó, ông đã chuyển ý tưởng sang việc thu nhỏ cỗ máy để tăng tần số giao động, chuyển từ đồng hồ kiểu dáng để bàn sang đồng hồ quả quýt. Năm 1755, ông chuyển đến London và bắt đầu thực hiện toàn bộ ý tưởng trên chiếc H4 Chronometer huyền thoại của mình.
Ảnh từ rmg.co.uk trích dẫn chiếc đồng hồ H4 Chronometer của Mr. John Harrison.
H4 được nâng cấp để có một loạt các công nghệ tiên tiến, bao gồm một bộ thoát thẳng đứng khác thường với các pallet làm bằng kim cương, một bánh xe cân bằng ngoại cỡ với một lò xo thép xoắn phẳng, các tính năng bù nhiệt độ tiên tiến và một bộ đệm để tăng thêm độ chính xác. Toàn bộ phần máy được bao phủ để đảm bảo độ chính xác tối đa, điều rất hiếm khi thấy trong đồng hồ học hiện đại là lộ máy. Một thanh dẫn thứ cấp nhỏ hơn gần bộ thoát đã giúp cân bằng lực truyền qua hộp số và làm trơn tru việc phân phối chuyển động của máy.
Ảnh từ rmg.co.uk trích dẫn phần máy chiếc đồng hồ H4 Chronometer của Mr. John Harrison.
Tất cả các thiết kế tiên tiến này đã mất tới 6 năm để hoàn thiện. Đến ngày 6 tháng 11 năm 1761, H4 cuối cùng đã sẵn sàng cho chuyến hành trình xuyên Đại Tây Dương đầu tiên. Mr. John Harrison đã để lại chiếc đồng hồ H4 cho con trai William, người đã rời Portsmouth trên tàu HMS Deptford đến Jamaica. Biểu đồ của William, được hỗ trợ bởi H4, đã dự đoán chính xác chuyến đi vào Kingston trong phạm vi một hải lý. Đây là một thành công đáng kinh ngạc với đồng hồ đi biển thời điểm này.
Mr. John Harrison vui mừng khôn xiết, và ngay khi trở về đã mang chiếc H4 Chronometer đến Board of Longitude (Hội đồng kinh độ) để nhận phần thưởng 20.000 bảng Anh. Tuy nhiên, Hội đồng kinh độ đã từ chối trả tiền thưởng cho ông. Các thành viên hội đồng đã coi cuộc thử nghiệm trên tàu Deptford là một sự may mắn. Họ khẳng định rằng việc chế tạo một chiếc đồng hồ biển mất 6 năm không phải là một giải pháp thực tế cho tất cả các tàu của Hạm Đội Anh. Hội đồng đã đề nghị với Mr. John Harrison về phần thưởng 5.000 bảng cho công việc của ông nhưng đã bị ông thẳng thừng từ chối!
Lúc này Mr. John Harrison đã 68 tuổi, ông lên tàu đến Barbados đem theo sự phẫn nộ để tranh luận thêm về vấn đề này. Khi đến nơi, ông ta đã gặp thẳng trực tiếp Nhà thiên văn học Hoàng gia Nevil Maskelyne, người đứng đầu Hội đồng Kinh độ, để bào chữa cho trường hợp của mình. Maskelyne đưa ra một thử thách rằng ông sẽ sử dụng Phương pháp Khoảng cách Mặt Trăng, một hệ thống xác định kinh độ lần đầu tiên do Sir Isaac Newton hình thành và được phát triển thêm bởi ông sẽ thi đấu với chiếc H4 của Mr. John Harrison trên tàu HMS Tartar trong chuyến hành trình trở về Nước Anh.
Nếu đồng hồ đi biển của Mr. John Harrison ưu việt hơn, Maskelyne sẽ xem xét lại vấn đề về phần thưởng cho nỗ lực của ông. Trên khắp Đại Tây Dương, cả đồng hồ của Mr. John Harrison và Phương pháp khoảng cách Mặt Trăng của Maskelyne đều được chứng minh là cực kỳ chính xác, chỉ với 9 giây tách biệt giữa 2 phương pháp khi con tàu đến Portsmouth. Tuy nhiên, hệ thống của Maskelyne đòi hỏi một chuỗi các phép toán cực kỳ phức tạp và liên tục để duy trì độ chính xác. Mr. John Harrison cảm thấy rất vui rằng vấn đề dường như đã được được giải quyết rõ ràng. Việc tính toán phức tạp như vậy chắc chắn sẽ không thực tế đối với thủy thủ đoàn-những người có học vấn toán học ở mức trung bình.
Tuy nhiên, khi Maskelyne trở lại ghế của mình trong Hội đồng Kinh độ ở London, ông đã “nuốt lời” và đưa ra một báo cáo gay gắt về H4. Maskelyne nói rằng việc sử dụng chiếc H4 lại là một sự “may mắn” trong suốt hành trình, phương pháp của ông mới thực sự chính xác và chính ông nên được Hội đồng kinh độ thưởng 20.000 bảng Anh! Chưa dừng lại ở đó, phán quyết còn tịch thu chiếc H4 từ Mr. John Harrison để “thử nghiệm thêm”.
Mr. John Harrison rất tức giận khi bị từ chối giải thưởng đến 2 lần sau khi vượt qua thử thách. Mr. John Harrison đã bắt tay ngay vào xây dựng một phiên bản cải tiến của H4 là H5 và quyết định trực tiếp đưa vụ việc của mình lên Vua George III. Nhà vua đã choáng váng trước sự tham nhũng của Hội đồng kinh độ, và yêu cầu kiểm tra độ chính xác chiếc H5 đầu tay của Mr. Harrison hàng ngày ngay tại cung điện Hoàng gia Anh.
Ảnh từ collection.sciencemuseumgroup.org.uk trích dẫn chiếc đồng hồ H5 Chronometer của Mr. John Harrison.
Từ tháng 5 đến tháng 7 năm 1772, chiếc đồng hồ được kiểm tra và phát hiện là có độ chính xác trong vòng một phần ba giây mỗi ngày. Vua George, hơn cả hài lòng nên đã yêu cầu Hội đồng kinh độ trả cho Mr. John Harrison phần thưởng của mình và đe dọa sẽ thảo luận vấn đề trực tiếp với Maskelyne. Hội đồng đã miễn cưỡng trao cho Mr. John Harrison phần thưởng tổng trị giá 8.750 bảng Anh cho những thành tích của ông trong việc giải quyết vấn đề kinh độ vào năm 1773 và phong tặng cho chiếc đồng hồ của ông danh hiệu “Marine Chronometer” (hay còn gọi là đồng hồ Chronometer hàng hải). Đây là thời điểm chính thức mà cái tên Chronometer được công nhận lần đầu tiên trên đồng hồ.
Nhưng lúc này, khi làm việc nghiên cứu hơn 40 năm, Mr. John Harrison hiện đã 80 tuổi. Ông quá mệt mỏi với việc tranh giành giải thưởng nên miễn cưỡng chấp nhận số tiền thưởng bị giảm và nghỉ hưu yên bình trước khi qua đời vì tuổi già vào năm 1776. Giải thưởng 20.000 bảng Anh như lúc đầu mãi mãi không bao giờ được trao cho Mr. John Harrison và Hội đồng Kinh độ cuối cùng phải giải tán vào năm 1828.
Mặc dù Mr. John Harrison chưa bao giờ nhận được toàn bộ giải thưởng, nhưng chiếc đồng hồ Chronometer Marine của ông đã nhanh chóng để lại dấu ấn trên toàn thế giới. Thuyền trưởng James Cook đã sử dụng một bản sao của H4 để khám phá Úc, New Zealand, Nam Cực và một chiếc đồng hồ Harrison khác đã đi cùng ông trong chuyến hành trình định mệnh tới Hawaii, nơi ông được tôn vinh như một vị thần và sau đó bị người dân trên đảo giết chết theo nghi thức khi ông trở về. Một bản sao khác của H4 cũng đã được sử dụng trên tàu HMS Bounty trong cuộc chiến khét tiếng. Đồng hồ Chronometers hàng hải nhanh chóng trở thành thiết bị tiêu chuẩn trên toàn thế giới, hoàn toàn thống trị ngành hàng hải vào đầu thế kỷ 19 và cứu vô số sinh mạng khỏi các thảm họa hàng hải.
* Đến đây tôi muốn nói với bạn 1 bí mật về đồng hồ Chronometer hàng hải mà không phải người chơi đồng hồ nào cũng biết đến. Bí mật này gắn với cái tên Mr. Ferdinand Berthoud (1727-1807).
Ảnh Mr. Ferdinand Berthoud từ en.m.wikipedia.org
Mr. Ferdinand Berthoud sinh ra ở Plancemont, Val-de-Traver, Neuchâtel, Thụy Sỹ ngày nay, nhưng sau khi được cấp chứng chỉ là nhà chế tác đồng hồ lúc 18 tuổi thì ông đã chuyển đến Paris (Pháp) để nâng cao thêm kỹ năng chế tác đồng hồ của mình. Vào ngày 4/12/1753, theo lệnh của Hội Đồng Hoàng Gia Pháp (French Royal Council), loại trừ các quy tắc của các bang hội và được sự ưu ái của Nhà Vua Pháp, Mr. Ferdinand Berthoud đã trở thành bậc thầy đồng hồ năm 26 tuổi với danh hiệu cao quý “Master clockmaker”. Mr. Ferdinand Berthoud đã xuất bản rất nhiều luận án và tác phẩm về chế tác đồng hồ.
Năm 1763, Mr. Ferdinand Berthoud được Nhà Vua chỉ định kiểm tra, đánh giá chiếc đồng hồ Chronometer hàng hải H4 của Mr. John Harrison. Chuyến đi này đã khiến Mr. Ferdinand Berthoud thất vọng vì Mr. John Harrison chỉ cho ông xem các mẫu đồng hồ Chronometer từ H1 đến H3 của mình chứ không được xem chiếc H4 Chronometer huyền thoại. Mặc dù không được thấy chiếc H4 Chronometer nhưng chuyến đi đã giúp Mr. Ferdinand Berthoud có một con đường gia nhập giới khoa học Anh. Do có quá nhiều tác phẩm và luận án được xuất bản, đến ngày 16/2/1764, Mr. Ferdinand Berthoud đã được bầu làm “thành viên nước ngoài liên kết với Hiệp Hội Hoàng Gia Anh”. Lúc này Mr. Ferdinand Berthoud cũng hình thành ý tưởng chế tác đồng hồ Chronometer hàng hải của riêng mình.
Năm 1765, Mr. Ferdinand Berthoud đã thực hiện chuyến thăm thứ 2 đến Lodon để gặp Mr. John Harrison thông qua văn phòng của Bá tước Count Heinrich von Brühl (1700–1763). Mr. John Harrison đã từ chối trình bày những sáng tạo của ông trên chiếc đồng hồ Chronometer H4 cho Mr. Ferdinand Berthoud mặc dù ông hoàn toàn có khả năng để sử dụng thiết kế này để mang lại nhiều lợi ích cho Hải quân Pháp. Lúc này, chính nhà đồng hồ học người Anh, Thomas Mudge (1715-1795), nổi tiếng với sự phát triển của bộ thoát đòn bẩy tách rời đầu tiên, và cùng là thành viên của Hội đồng kinh độ, đã mô tả nguyên lý hoạt động của chiếc đồng hồ Chronometer H4 cho Mr. Ferdinand Berthoud khi ông không thể trực tiếp nhìn thấy.
Ngày 7/5/1766, Mr. Ferdinand Berthoud quay trở về Pháp đã gửi một tờ đơn cho Công tước Praslin (1712-1785), Bá tước Choiseul, Bộ trưởng Bộ Hải quân, giải thích về kế hoạch xây dựng 2 đồng hồ biển Chronometer No 6 và No 8 dựa trên công nghệ, thiết kế của Anh quốc với khoản trợ cấp là 3000 bảng Anh. Nhà vua đã đồng ý và cấp khoản tiền trợ cấp cho Mr. Ferdinand Berthoud để ông thực hiện hóa ý tưởng của mình. Cuối cùng, đến ngày 3/11/1768, Công tước của Praslin đã giao những chiếc đồng hồ Chronometer No 6 và No 8 cho Charles -Pierre Claret(1738-1810), Hiệp sĩ của Fleurieu, nhà thám hiểm, nhà thủy văn học đi cùng với Canon Pingré(1711-1796), nhà thiên văn học Hải quân, nhà địa lý học, thành biên của Học viện Khoa học Hoàng Gia Pháp. Nhiệm vụ của họ chính là kiểm tra tính chính xác của No 6 và No 8 trên tàu hộ tống Isis trong chuyến hành trình dài 10 tháng từ Rochefort đến Santo Domingo. Thử nghiệm đã thành công và những chiếc đồng hồ Chronometer hàng hải đầu tiên được sản xuất tại Pháp bởi người Thụy Sỹ đã ra đời từ trong bối cảnh lịch sử của chiếc đồng hồ Chronometer H4.
Ảnh chiếc đồng hồ Chronometer No 6 của Mr. Ferdinand Berthoud từ masterhorologer.com
*** Nhiều người đã lầm tưởng chiếc đồng hồ Chronometer đầu tiên trên thế giới do người Thụy Sỹ chế tác. Chiếc đồng hồ No 6 của Mr. Ferdinand Berthoud được thử nghiệm từ 3/11/1768, mất 10 tháng để chứng minh thành công tức là đến tháng 9/1769 được công nhận. Còn chiếc đồng hồ H5 Chronometer của Mr. Harrison đến tận năm 1773 mới được công nhận (tức là được công nhận sau chiếc đồng hồ No 6 của Mr. Ferdinand Berthoud). Đây là 1 sai lầm lớn. Vì bản chất chiếc đồng hồ H4 Chronometer đã được thử nghiệm thành công tới 2 lần (lần đầu tiên là năm 1761 với chuyến đi của con trai Mr. John Harrison là William và lần thứ 2 là chuyến đi ngay sau đó với Nevil Maskelyne) nhưng bị từ chối cả 2 lần bởi sự tham nhũng của Nevil Maskelyne, người đứng đầu Hội đồng Kinh độ. Như vậy nếu xét theo thời gian hình thành và được chứng minh thì chiếc H4 Chronometer của Mr. John Harrison là chiếc đồng hồ Chronometer hàng hải chạy chính xác đầu tiên. Chưa kể đến bản thân chiếc No 6 và No 8 của Mr. Ferdinand Berthoud cũng dựa trên thiết kế, công nghệ Anh quốc là chiếc H4 Chronometer huyền thoại.
Như vậy chúng ta có thể khẳng định rằng chiếc đồng hồ Chronometer đầu tiên được phát minh bởi người Anh. Ngành công nghiệp đồng hồ Anh Quốc và Pháp thời kỳ đầu mạnh hơn rất nhiều so với Thụy Sỹ. Thụy Sỹ chỉ là nơi mà mọi người biết đến đồng hồ nhiều nhất giai đoạn sau này. Nếu bạn là một nhà sưu tầm đồng hồ cổ thực sự thì hãy chơi, hãy sưu tầm theo các mốc lịch sử, các sự phát minh, đó mới là cách chơi sâu nhất về đồng hồ. Đừng chỉ sưu tầm đồng hồ Thụy Sỹ trong khi có rất nhiều chiếc đồng hồ tuyệt vời đến từ những đế chế đồng hồ hùng mạnh khác như Anh, Pháp, Đức, Nhật,…
Bạn vẫn nhớ câu chuyện về chiếc đồng hồ đeo tay tự động có bản quyền đầu tiên trên thế giới cũng do người Anh sáng chế ra mà tôi đã từng kể ở bài viết trước đúng không? Hãy đọc lại ngay tại đây nhé!
2. CUỘC CHẠY ĐUA “CHRONOMETER” GIỮA CÁC HÃNG ĐỒNG HỒ VÀ CHỨNG NHẬN “COSC” SAU NÀY:
Dù đồng hồ Chronometer hàng hải đã được phát minh nhưng công nghệ chế tác ban đầu rất đắt, không phải tất cả các con tàu đều có thể trang bị những cỗ máy Chronometer hàng hải. Bắt đầu từ năm 1820, Đài quan sát Hoàng Gia Anh ở Greenwich (được xây dựng ngày 10/8/1675) đã bắt đầu thử nghiệm kiểm tra các cỗ máy Chronometer hàng hải do Bộ Hải Quân khởi xướng và chương trình “cạnh tranh cỗ máy Chronometer” nhằm khuyến khích việc cải tiến các cỗ máy. Đến năm 1825, Hải quân Hoàng gia Anh bắt đầu thường xuyên sử dụng đồng hồ Chronometer trên tàu của mình.
Sự gia tăng nhu cầu sử dụng những cỗ máy Chronometer hàng hải lúc này rất cần một cơ quan có thể điều chỉnh, kiểm tra và chứng nhận cho những cỗ máy Chronometer. Đúng thời điểm này, kỷ nguyên về thiên văn học bắt đầu ló dạng trên khắp châu Âu. Lần đầu tiên, vào giữa thế kỷ 19, công nghệ quang học bắt đầu bắt kịp với những tiến bộ toán học của những thiên tài trong quá khứ như Johannes Kepler, Tyco Brahe và Sir Isaac Newton. Các đài quan sát thiên văn khổng lồ mọc lên khắp châu Âu, Anh, Pháp, Đức lập biểu đồ chuyển động của các hành tinh và các ngôi sao với độ chính xác đáng kinh ngạc.
Các nhà chế tạo những cỗ máy Chronometer hàng hải đã tìm đến một tổ hợp các đài quan sát thiên văn để tiến hành đánh giá độ chính xác của những chiếc đồng hồ. Cách đánh giá độc lập của bên thứ ba này cũng phát triển thành cái được gọi là “Cuộc Thi máy đo thời gian” tại các đài quan sát thiên văn ở Tây Âu. Đài quan sát Neuchâtel – Thụy Sỹ (thành lập ngày 18/5/1858), Đài quan sát Geneva – Thụy Sỹ (thành lập năm 1772), Đài quan sát Besançon – Pháp (thành lập năm 1883-1884), Đài quan sát Kew – Anh quốc (thành lập năm 1760), Đài quan sát Hải quân Đức Hamburg (thành lập năm 1825) và Đài quan sát Glashütte (xây dựng năm 1906 và mở cửa năm 1910) là những ví dụ nổi bật về các đài quan sát chứng nhận độ chính xác của đồng hồ cơ khí. Chế độ thử nghiệm trên đài quan sát thường kéo dài từ 30 đến 50 ngày, có các tiêu chuẩn về độ chính xác cực nghiêm ngặt và khó hơn rất nhiều so với các tiêu chuẩn hiện đại. Thông thường những cỗ máy phải vượt qua 10 bài kiểm tra giờ hiện hành ở 5 vị trí và 2 nhiệt độ khác nhau.
Sau khi các cỗ máy vượt qua được các bài kiểm tra, cỗ máy hoặc đồng hồ sẽ được cấp giấy chứng nhận “Bulletin de Marche”. Có lẽ đây là loại giấy chứng nhận Chronometer đầu tiên trong ngành đồng đồ. Chứng nhận Chronometer thời kỳ đầu chủ yếu muốn nói đến các cỗ máy riêng biệt chạy chính xác được đem đi kiểm tra (không phải cả chiếc đồng hồ hoàn chỉnh sau khi được lắp ráp).
Ảnh đồng hồ Longines Chronometer với giấy chứng nhận Bulletin de Marche đời đầu từ christies.com
Việc cấp chứng chỉ Chronometer tại các đài quan sát thiên văn cứ như vậy diễn ra cho đến khi xuất hiện các Văn phòng chuyên trách chuyên kiểm tra và cấp giấy chứng nhận Chronometer cho những cỗ máy đồng hồ. Năm 1877 tại Biel và La Chaux-de-Fonds, năm 1888 tại Saint-Imier. Các văn phòng này được gọi với cái tên “Office de controle de la marche des mastres”. Như vậy các hãng đồng hồ có thể xin cấp giấy chứng nhận Chronometer cả ở đài quan sát thiên văn hoặc các văn phòng chuyên trách này.
Đến năm 1893, thời gian kiểm tra các cỗ máy đã được rút ngắn tại các phòng chuyên trách chỉ còn 15 ngày ở 2 vị trí và 3 nhiệt độ. Từ năm 1904, các bài kiểm tra được chia thành 2 lần. Lần 1 trong 15 ngày và Lần 2 trong 10 ngày nữa.
Đến năm 1915, Hiệp hội các nhà sản xuất đồng hồ Thụy Sỹ (Suisse des Associations de Fabricants d’Horlogerie) đã chính thức định nghĩa chứng nhận Chronometer là dành cho một chiếc đồng hồ được lắp ráp hoàn chỉnh, chạy chính xác và được test ở các vị trí, nhiệt độ khác nhau. Định nghĩa này đã loại bỏ khái niệm Chronometer là đồng hồ hàng hải hay Chronometer chỉ là cỗ máy đồng hồ chạy chính xác.
Tuy nhiên, việc sử dụng, đặt hàng những chiếc đồng hồ Chronometer cho ngành hàng hải, quân sự ở đầu thế kỷ 20 vẫn diễn ra. Định nghĩa đã thay đổi nhưng thực tế không phải ai cũng update kịp thông tin và ở thời điểm này những chiếc đồng hồ Chronometer vẫn đem lại hiệu quả rất tuyệt vời.
Đầu thế kỷ 20, những người lính, hải quân và thậm chí là những người trí thức cũng đã dần quen với việc sử dụng đồng hồ. Họ tìm cách đeo đồng hồ trên cổ tay để thuận tiện hơn cho chiến đấu, tính toán tọa độ và thậm chí là những công việc hàng ngày. Nếu những chiếc đồng hồ được gắn thêm “quai chảo” thì đó là tiền thân của những chiếc đồng hồ Trench Watch, còn nếu những chiếc đồng hồ quả quýt được đeo nguyên chiếc hay được độ lại vỏ để trở thành đồng hồ đeo được lên tay (giữ nguyên phần máy) thì được gọi với cái tên Marine Watch (theo mục đích đầu tiên của sử dụng đồng hồ trong quân sự-tôi sẽ viết về kiểu chơi này ở bài sau).
Ảnh đồng hồ quả quýt được độ thêm bộ dây da để đeo lên tay trong quân đội từ aftofmanliness.com
Cũng thời điểm đầu thế kỷ 20, sự ra đời của tín hiệu đo thời gian bằng máy ghi âm phóng xạ đã hỗ trợ và giúp cho những chiếc đồng hồ Chronomter hàng hải có thể được sử dụng để đo thời gian và điều hướng không chỉ trong ngành hàng hải mà còn cả ngành hàng không. Các hệ thống định vị vô tuyến khác nhau đã được phát minh, phát triển và triển khai trong và sau Chiến tranh thế giới thứ hai (ví dụ: Gee, Sonne (hay còn gọi là Consol), LORAN (-A và -C), Hệ thống định vị Decca và Hệ thống định vị Omega) đã làm giảm đáng kể nhu cầu định vị bằng cách sử dụng đồng hồ Chronometer hàng hải. Những phát minh mới này đã dẫn đến việc phát triển và triển khai các hệ thống định vị vệ tinh toàn cầu (GSN-GPS) vào nửa sau của thế kỷ 20. Đồng hồ Chronometer nửa sau thế kỷ 20 không còn được sử dụng làm phương tiện chính để điều hướng trên biển, mặc dù nó vẫn được yêu cầu như một công cụ dự phòng khi các hệ thống vô tuyến và thiết bị điện tử liên quan bị lỗi.
Năm 1951, đạo luật được thay đổi, những chiếc đồng hồ chỉ được cấp chứng chỉ Chronometer tại các văn phòng chuyên trách (điều này đã loại bỏ việc cấp chứng chỉ Chronometer tại các đại quan sát thiên văn). Chỉ 1 năm sau đó, năm 1952, đạo luật đã phải thay đổi 1 lần nữa để quy định rằng cả các đài quan sát thiên văn và các văn phòng chuyên trách đều có thể cấp chứng chỉ chronometer cho đồng hồ.
Nhận ra được cơ hội marketing tuyệt vời tại các đài quan sát thiên văn (chủ yếu là Neuchatel), các hãng đồng hồ đã chạy đua với nhau để tạo ra các cỗ máy Chronometer tốt nhất có thể. Những cái tên như Longines, Zenith, Omega,… và nhiều kỷ lục khác đã được tạo ra trong nhiều thập kỷ.
Omega cũng sử dụng biểu tưởng Đài Quan Sát Thiên Văn trên nắp đáy của dòng Constellation (công -tê) như một khẳng định về chất lượng Chronometer của các cỗ máy thời kỳ này. Còn 8 ngôi sao đại diện cho 8 bộ hồ sơ kiểm tra tính chính xác mà Omega đã xuất sắc vượt qua tại các Đài quan sát thiên văn năm 1931.
Những cỗ máy Chronometer được đem đi thi thời kỳ này thường không nhằm mục đích sử dụng để bán tới tay người tiêu dùng vì sự chính xác gần như tuyệt đối đó không quá cần thiết cho sự sử dụng bình thường hàng ngày. Đó là những cuộc thi Phi thực tế giữa các hãng sản xuất khi họ chỉ muốn nghiên cứu và show ra những kỹ thuật sản xuất máy vô cùng đỉnh cao trong chế tác đồng hồ. Sau khi đi thi và nhận giải thưởng, các hãng đã sản xuất các phiên bản Chronometer tương tự với những yêu cầu thấp hơn để bán tới tay người tiêu dùng. Vừa tiết kiệm được chi phí, vừa đem lại sản phẩm ở mức tốt nhất có thể trong tầm giá đến người tiêu dùng. Nếu sản xuất những phiên bản có độ chính xác y như những mẫu đem đi thi sẽ cần nhiều tinh chỉnh, nguyên liệu và chi phí cao, làm giá thành bán ra cho người tiêu dùng rất cao (vượt quá khả năng chi trả của khách hàng).
*** Nhiều người chơi nói rằng đây là “chiêu trò” của các hãng để “lừa” khách hàng, tôi không nói Đúng hay Sai ở quan điểm này. Hãy thử nghĩ xem ví dụ một chiếc đồng hồ siêu chính xác sai số khoảng +/-1s mỗi ngày được bán với giá 10.000$ phải sản xuất, tinh chỉnh và test rất lâu để cho ra số lượng ít khoảng 50-100 chiếc mỗi lô và một chiếc đồng hồ tương tự với sai số +/- (10-15)s mỗi ngày được bán với giá 700-1000$ sản xuất với số lượng 1000-5000 chiếc mỗi lô. Liệu rằng sản xuất ít, chất lượng cao, giá bán cao có bán được tới tay nhiều người tiêu dùng, có đem lại lợi nhuận đủ để hãng phát triển hay sản xuất những phiên bản mà người tiêu dùng “chấp nhận” được với mức giá mà phần đông người tiêu dùng có thể chi trả, bán được tới tay nhiều người tiêu dùng, giúp hãng mở rộng thị trường, tăng độ nhận diện thương hiệu; phương án nào khả thi hơn? Thời kỳ đầu các hãng sản xuất đồng hồ “khá nghiêm chỉnh”, chỉ có giai đoạn cận đại sau này nhiều hãng đồng hồ làm marketing “ảo” để bán sản phẩm chất lượng chưa tốt với giá cao cho người tiêu dùng. Chính vì vậy mà quan điểm “chiêu trò” ở trên chưa thực sự phù hợp để nhận xét những chiếc đồng hồ thời kỳ đầu (đồng hồ cổ, vintage), nó sẽ đúng hơn ở giai đoạn sau này với 1 vài thương hiệu.
Cuộc chiến đồng hồ Chronometer bắt đầu bước sang chương mới vào năm 1966-1967, hãng đồng hồ Girard Perregaux (người chơi ở Việt Nam hay gọi tắt là GP) lần đầu tiên đem cỗ máy sản xuất để bán đại trà đem đi thi đấu và nhận được chứng nhận Chronometer. Đó chính là cỗ máy Cal 32A 36.000 giao động huyền thoại của GP. Để vinh danh cho sự kiện mang tính bước ngoặt này, đài thiên văn đã tra cho GP giải thưởng Centenary đầu tiên của họ (đương nhiên trước đó rất nhiều hãng đồng hồ đã được nhận giải này).
Ảnh Cal 32A Chronometer Girard Ferregaux từ fratellowatches.com
Theo sau GP, Longines cũng sản xuất những cỗ máy đạt chuẩn Chronometer đem bán đại trà. Đó chính là Cal 431 36.000 năm 1967 và những biến thể sau này.
Như được “khai sáng” để quảng bá thưởng hiệu của mình khắp thế giới (trước đó Seiko chủ yếu bán cho thị trường Châu Á), năm 1968, Seiko cũng đem tới cuộc thi tận 226 cỗ máy trong đó có 73 chiếc Cal 45 và cả những cỗ máy Quartz (thạch anh). Cal 45 được cấp chứng nhận Chronometer và sau đó được đặt trong những bộ vỏ vàng đúc 18k với mặt số vàng kiểu dáng line dial (mặt số lụa) và bán đại trà cho công chúng với chứng chỉ Đài quan sát Nauchâtel trên mặt số “Seiko Astronomical Observatory Chronometer”.
Ảnh chiếc đồng hồ Seiko Seiko Astronomical Observatory Chronometer vỏ vàng 18k từ plus9time.com
Điều đáng nói đến là những cỗ máy Quartz (thạch anh) mà Seiko mang thi đấu có độ chính xác gấp 10 lần cỗ máy cơ khí của Seiko đã vượt qua những vị trí cao nhất tại Đài thiên văn. Những cỗ máy cơ khí đạt chuẩn Chronometer đắt giá, khó sản xuất của Thụy Sỹ dường như bị lỗi thời trước những cỗ máy Quartz rẻ tiền và cực kỳ chính xác của Seiko. Phản ứng của Neuchâtel là đình chỉ các cuộc thi đấu Chronometer vô thời hạn, tước đi cơ hội bảo vệ kết quả của Seiko. Chưa bao giờ ngành công nghiệp đồng hồ Thụy Sỹ lại bị “làm nhục” bởi 1 kẻ “ngoại đạo” đến từ Châu Á với cỗ máy “rẻ tiền” đến vậy. Sau đài thiên văn Neuchâtel là đài thiên văn Genene, Seiko cũng đem những cỗ máy của mình đi thi và kết quả cũng không ngoại lệ. Sự lụi tàn của cuộc thi Chronometer cũng là mở đầu cho cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong lịch sử đồng hồ thế giới (trong đó có Thụy Sỹ) – khủng hoảng thạch anh.
Năm 1973, để lập lại trật tự và thiết lập lại tiêu chuẩn Chronometer thì đại diện từ các đài quan sát Thụy Sỹ, Liên đoàn Công nghiệp Đồng hồ Thụy Sỹ (FHS) và 5 bang sản xuất đồng hồ Bern, Geneva, Neuchâtel, Solothurn và Vaud đã hợp lực để tạo ra 1 tổ chức phi lợi nhuận với cái tên Contrôle Officiel Suisse des Chronomètres (viết tắt là COSC). Nhiệm vụ của COSC là cấp giấy chứng nhận cho các đồng hồ đạt chuẩn Chronometer. Tiêu chuẩn COSC đã điều chỉnh và chủ yếu áp dụng cho những chiếc đồng hồ được sản xuất, láp ráp tại Thụy Sỹ tuân theo các quy chuẩn ISO 3159 của thế giới. Tiêu chuẩn mới này dường như đã “từ chối” sự tham gia của các “bên Thứ 3” tại các cuộc thi ở Đài quan sát thiên văn. Chính vì vậy mà người Nhật đã tự lập ra tiêu chuẩn Chronometer của riêng mình. Người Đức cũng không mấy “mặn mà” với chuẩn Chronometer COSC vì họ đã có tiêu chuẩn Chronometer của mình tại Đài quan sát thiên văn Glashütte.
Phải 5 năm sau khi thành lập, năm 1979, thì COSC mới chính thức cấp những giấy chứng nhận Chronometer đầu tiên. Các hãng đồng hồ thường xuyên được cấp chứng nhận Chronometer COSC là Rolex, Omega và sau này là Brietling, Tag Heuer, Tudor. Nếu nói về Chronometer COSC sau này thì Rolex, Omega và Brietling luôn giữ vị trí đứng đầu. Brietling đã tuyên bố rằng kể từ năm 2000, tất cả các cỗ máy Brietling sản xuất đều sẽ đạt chuẩn Chronometer COSC. Sản lượng máy được cấp chứng chỉ Chronometer COSC của Rolex lớn đến mức 2 trong số 3 cơ sở của tổ chức COSC (tại Biel và Saint-Imier) gần như hoàn toàn dành riêng cho việc cấp chứng nhận đồng hồ Rolex (đặc biệt là Cal 3135). Trong khi đó cơ sở cuối cùng tại Le Locle xử lý phần còn lại của ngành công nghiệp đồng hồ Thụy Sỹ do Omega, Brietling, Tag Heuer và Panerai đứng đầu.
Rolex cũng đã phát triển tiêu chuẩn Rolex Superlative Chronometer của riêng mình bằng cách tự kiểm tra thêm những chiếc đồng hồ được chứng nhận COSC phê duyệt để có sai số thấp hơn nữa. Seiko tại quốc gia của mình cũng xây dựng lên một tiêu chuẩn Chronometer Grand Seiko khắt khe hơn tiêu chuẩn của COSC. Năm 2015, Omega đã hợp tác với METAS, viện đo lường liên bang Thụy Sỹ, để mở một phòng thử nghiệm tại trụ sở Omega ở Biel với mục đích ban đầu là kiểm tra và chứng nhận Master Chronometer của Omega (cao cấp và khắt khe hơn rất nhiều so với COSC).
*** Cuộc thi đồng hồ Chronometer đã không còn trở thành 1 sân chơi nơi các hãng đồng hồ thi đấu những kỹ thuật phát triển máy hàng năm. COSC không còn giữ vị trí “trọng tài” như trước và dường như đã trở thành một “công cụ” Marketing, cấp chứng chỉ hàng loạt cho những chiếc đồng hồ bán ra thị trường của các thương hiệu lớn.
Theo số đông, chứng nhận Chronometer vẫn là một chứng nhận đáng mơ ước trên những chiếc đồng hồ cao cấp. Tuy nhiên rất nhiều hãng, trong đó có Patek Phillipe, dù cỗ máy của họ rất chính xác, được tinh chỉnh 5 vị trí và các nhiệt độ khác nhau nhưng họ cũng không cần “chữ Chronometer” xuất hiện trên mặt số. Đơn giản bởi người chơi Patek Philippe không hề quan tâm đến sự xuất hiện của Chronometer, chỉ cần dòng chữ “Patek Philippe” là đủ!
Điều này cũng xảy ra tương tự đối với các hãng đồng hồ do những Bậc thầy đồng hồ tạo ra. Họ là những Master Watchmaker (ví dụ như Mr. Georger Daniels, Mr. Philippe Dufour) đủ trình độ tạo ra những cỗ máy với sai số không tưởng (hơn cả đồng hồ Quartz). Họ đủ thẩm quyền để cấp chứng chỉ Chronometer nhưng có lẽ dòng chữ “mang tên của các bậc thầy” trên đồng hồ còn giá trị hơn hàng triệu lần so với chứng chỉ Chronometer. “Dòng chữ này” không chỉ đảm bảo về chất lượng, độ hoàn thiện, vẻ đẹp, độ chính xác mà còn cả giá trị của chiếc đồng hồ.
*** Đến đây tôi có thể tóm tắt những điều mà nhiều nhà sưu tầm đồng hồ thế giới vẫn đang quan tâm về đồng hồ Chronometer:
+ Đồng hồ Chronometer đầu tiên được sản xuất và thử nghiệm thành công bởi người Anh chứ không phải người Thụy Sỹ.
+ Đồng hồ Chronometer ban đầu là những chiếc đồng hồ chạy chính xác sử dụng cho những chuyến đi dài ngày trên biển.
+ Đồng hồ Chronometer thường được tinh chỉnh ở 5 vị trí và các nhiệt độ khác nhau.
+ Chứng chỉ Chronometer ban đầu chỉ là chứng chỉ cấp cho những cỗ máy vượt qua bài kiểm tra. Đến năm 1915 mới chính thức công nhận Chronometer là chứng chỉ được cấp cho 1 chiếc đồng hồ được lắp ráp hoàn chỉnh vượt qua các bài kiểm tra.
+ Những chiếc đồng hồ được chứng nhận Chronometer nhưng cỗ máy được tinh chỉnh ở 2 vị trí và 3 nhiệt độ khác nhau sẽ là những chiếc đồng hồ xin cấp chứng nhận tại các văn phòng chuyên trách (không phải đài quan sát thiên văn).
+++ Những chiếc đồng hồ có cỗ máy được tinh chỉnh ở 5 vị trí hoặc 2 vị trí và các nhiệt độ khác nhau nhưng mặt số không đóng chữ Chronometer thì có thể đây là những chiếc đồng hồ mà hãng đã tự kiểm tra, tinh chỉnh nhưng chưa đem đi kiểm tra để được nhận chứng chỉ Chronometer (nhưng chất lượng thì ngang với những mẫu Chronometer bán ra công chúng).
+ Chứng nhận Chronometer COSC chỉ là chứng nhận sau này (từ năm 1973 trở đi) và các bài kiểm tra của COSC không quá khắt khe như những bài kiểm tra Chronometer ban đầu.
+ Điểm cuối cùng, Chronometer khác gì với Chronometre hay Chronomètre?
Từ Chronometre hay Chronomètre là từ tiếng Pháp cũng dùng với ý nghĩa tương tự Chronometer. Nhiều ý kiến cho rằng Chronometre hay Chronomètre sẽ sử dụng cho những chiếc đồng hồ ở thị trường Tây Âu ở cuối thập niên 1950s trở về trước. Hay đơn giản khi 1 nhà sưu tầm nhìn thấy chữ Chronometre hay Chronomètre trên mặt số với những bộ vỏ đáy nhấn (snap back) thì đó là những phiên bản ra đời sớm hơn (đời đầu).
Cuối cùng, vẫn như thường lệ, mọi người sẽ tò mò không rõ hôm nay Nam Nam sẽ giới thiệu chiếc đồng hồ nào về chủ đề Chronometer đúng không?
Liệu đó có phải là chiếc đồng hồ Omega với cỗ máy Chronometer?
Hay đó là một chiếc đồng hồ Chronometer thương hiệu Longines yêu thích của tôi?
Có lẽ với bài viết chuyên sâu này, tôi sẽ không tìm đến những chiếc đồng hồ quý của những thương hiệu được nhiều người biết đến như Longines, Omega hay Seiko. Ở bài viết này tôi sẽ giới thiệu về 1 chiếc đồng hồ Chronometer đến từ nước Đức: Junghans Chronometer full box và giấy tờ từ thập niên 1950s.
Junghans là một thương hiệu nổi tiếng và uy tín trong ngành đồng hồ. Những chiếc đồng hồ Junghans được biết đến chủ yếu với phong cách tối giản. Junghans được thành lập lần đầu tiên vào năm 1861 với tên gọi “Junghans and Tobler” tại Schramberg, Đức. Rất ít người sưu tầm đồng hồ đeo tay Junghans ở thời kỳ đầu vì chúng thường có bộ vỏ xi mạ và sử dụng cỗ máy được mua từ Ruhla. Đến năm 1930, Junghans mới thực sự sản xuất được những cỗ máy của riêng mình. Những cỗ máy chất lượng nhất và chính xác nhất của Junghans được sản xuất ở những năm 1950s. Trong đó không thể không kể đến cỗ máy Cal 82/1 Junghans Chronometer.
Như đã biết, một cỗ máy hay cả chiếc đồng hồ hoàn chỉnh muốn được chứng nhận Chronometer thì cần vượt qua các bài kiểm tra ở các đài quan sát thiên văn hoặc các văn phòng chuyên trách. Ở Đức, họ có lẽ không mấy quan tâm đến những tiêu chuẩn hay cuộc chạy đua Chronometer tại Châu Âu. Họ đặt ra tiêu chuẩn Chronometer của riêng mình tại Đài quan sát thiên văn Glashütte. Loại chứng chỉ Chronometer Glashütte chủ yếu được cấp cho những chiếc đồng hồ được lắp ráp tại vùng Glashütte và có cỗ máy bao gồm ít nhất 55% linh kiện được sản xuất tại vùng này. Tiêu chuẩn Chronometer Glashütte khá giống với những tiêu chuẩn ở các đài thiên văn khác nhưng khắt khe hơn ở 2 điểm: đồng hồ phải có chức năng Hacking (dừng kim dây) và chỉ kiểm tra khi máy được lắp ráp hoàn chỉnh với vỏ đồng hồ. Có thể nói tiêu chuẩn Chronometer Glashütte tập trung vào chất lượng sản phẩm hơn.
Chiếc đồng hồ tôi sở hữu là một chiếc đồng hồ Junghans Chronometer sản xuất đúng trong thời kỳ Junghans mạnh nhất về đồng hồ đeo tay theo tiêu chuẩn Chronometer tại đài quan sát Glashütte còn nguyên vẹn chức năng Hacking (dừng kim giây) – rất nhiều cỗ máy Chronometer của Đức bị hỏng chức năng này sau quá trình sử dụng lâu dài.
Hầu hết những chiếc đồng hồ đeo tay Junghans thời kỳ này đều nằm trong bộ vỏ xi mạ bong tróc. Tuy nhiên phiên bản tôi sở hữu là một phiên bản thép toàn thân chưa qua đánh bóng với size 34mm không tính núm trong tình trạng tuyệt vời.
Mặt số nhiều lòng theo kiểu dáng Tuxedo Black (Đen và Trắng xen lẫn) Piepan (cạnh viền mặt số y hệt thiết kế của 1 chiếc Omega bát quái connie) trong tình trạng tuyệt vời.
Dòng chữ CHRONOMETER màu vàng trên nền mặt số màu đen là điều mà các nhà sưu tầm luôn săn lùng.
Bên ngoài bộ vỏ còn nguyên số serial đánh dấu. Đây là điều rất tuyệt vời trong mắt những nhà sưu tầm kỹ tính.
Bộ vỏ đời đầu đáy nhấn (snap back) size lớn sẽ không có ký hiệu “J” bên ngoài như những mẫu vỏ xi mạ đời sau size 33mm đáy xoáy vặn (screw back)
Đồng hồ vẫn giữ được cả 2 bộ dây Junghans trong tình trạng tuyệt vời (1 bộ dây hạt gạo bằng thép và 1 bộ dây da lắp khóa gập).
Sợi dây hạt gạo còn nguyên nấc chỉnh PAT.PEND (bản quyền).Điều này dường như là không thể đối với đồng hồ Junghans vintage thập niên 1950s.Đến đây tôi muốn nói với bạn 1 bí mật về linh kiện mà nhiều người vẫn hay hỏi tôi rằng một nhà sưu tầm thực sự chuyên sưu tầm những chiếc đồng hồ quý hiếm sẽ làm gì nếu như đồng hồ của họ vồ tình gặp sự cố và cần thay thế linh kiện chính hãng, nguyên bản cùng thời??? Liệu khi hỏng hóc chúng ta tìm đến những người thợ sửa đồng hồ sẽ có linh kiện thay thế???
Bạn biết đấy, những người thợ hay những trung tâm sửa chữa họ chỉ tích trữ linh kiện là những loại được sử dụng nhiều hoặc nhiều người chơi hay cần để được sử dụng thường xuyên, tạo ra lợi nhuận đều đặn. Sẽ chẳng ai, chẳng tổ chức nào đi tích trữ những linh kiện mà họ ít khi sử dụng, sẽ đọng một khoản tiền rất lớn cho những linh kiện mà chưa chắc họ sẽ dùng! Câu trả lời là chính người chơi buộc phải tự tích trữ linh kiện cho riêng mình phòng trừ lúc nào cần thiết sử dụng sẽ có ngay. Khi sưu tầm những chiếc đồng hồ quý hiếm đắt đỏ, nếu vô tình đồng hồ bị thiệt hại (do cả lỗi chủ quan và khách quan), nếu không khắc phục được, giá trị của đồng hồ sẽ giảm đi rất nhiều. Chủ nhân sẽ phải mất rất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc để khắc phục. Điều này đã hạ gục rất nhiều nhà sưu tầm khi họ không đủ sức khôi phục lại đồng hồ như ban đầu và phải bán tháo đồng hồ với giá rẻ mạt đi cho người khác.
Bản thân tôi cũng vậy, khi sưu tầm những chiếc đồng hồ quý hiếm, tôi luôn tích trữ linh kiện quý hiếm ở cả dạng đơn lẻ (chỉ có mỗi máy) hoặc nguyên chiếc sử dụng máy cùng thời (dạng linh kiện sống). Bất kỳ lúc nào tôi cần, tôi cũng tự đáp ứng nhu cầu của mình một cách nhanh nhất có thể.
Ví dụ như chiếc Heuer sử dụng cỗ máy tự động lọc cọc Triple Date (3 lịch) mà tôi sở hữu. Cỗ máy này nếu không biết cách sử dụng, bảo dưỡng thì rất dễ hỏng các modul lịch.
Chính vì vây tôi đã sưu tầm luôn 1 chiếc Hallmark Triple date full báo xưa sử dụng cỗ máy y hệt để phòng trừ lúc cần sẽ có linh kiện thay thế.
Với thú chơi “thủ sẵn” linh kiện thay thế ở dạng “sống” trong tình trạng hoàn hảo nhất có thể. Bạn vừa có thể tận hưởng cuộc chơi, vừa giữ giá trị đồng hồ (nếu cần thanh khoản thì bộ full hoàn hảo không bao giờ mất giá như đồng hồ đơn lẻ) vừa có thể “hy sinh” để “cứu tạm thời” những chiếc hiếm của thương hiệu lớn hơn trong lúc tìm linh kiện thay thế.
Và đương nhiên với chiếc Junghans Chronometer theo tiêu chuẩn Glashütte này, tôi cũng tích trữ sẵn linh kiện thay thế không chỉ 1 mà là 3 cỗ máy cùng thời.
Tại sao tôi lại tích trữ đến 3 cỗ máy như vậy? Hãy cùng lật ngửa mặt số lên nhé!
Đây là những loại mặt số vintage hiếm và tuyệt vời của Junghans Chronometer thập niên 1950s.
Như vậy tôi chỉ cần tìm đến nơi bảo dưỡng uy tín thay mặt số zin nguyển bản cùng thời vào bộ vỏ thép siêu hiếm size lớn Junghans. Tôi sẽ có 4 chiếc đồng hồ Junghans Chronometer vỏ thép tiêu chuẩn Glashütte với 4 kiểu dáng mặt số khác nhau (cách chơi cầu kỳ, tiết kiệm nhưng đem lại hiệu quả gấp 4 lần).
Một mặt số “nhẵn nhụi” màu vintage để “khoe” với những nhà sưu tầm không quá quen với màu thời gian.
Một mặt số lên màu thời gian tuyệt vời để khoe với những nhà sưu tầm đam mê những màu sắc thời gian.
Một mặt số đánh vân Gulloche “tiêu chuẩn Đức” để khoe với những nhà sưu tầm mặt số Gulloche.
Và cuối cùng, để sở hữu 1 bộ sưu tập không những hiếm có, đầy đủ và phá vỡ mọi giới hạn mà bạn biết về đồng hồ cổ, tôi đã tự tay vẽ 1 bức tranh về cỗ máy Junghans Cal 82/1 Chronometer Glashütte để kỷ niệm sự xuất hiện của chiếc đồng hồ trong bộ sưu tập của mình.
Đây có lẽ sẽ là chiếc đồng hồ Junghans vintage dòng dress tuyệt vời nhất mà tôi gặp với tất cả mọi thứ quý hiếm nhất mà 1 chiếc đồng hồ vintage có được.
Có thể nói đây là một chiếc đồng hồ “Omega Công Tê bát quái connie phiên bản Đức” với chất lượng Đức!
Đây cũng là may mắn và cũng là niềm tự hào của tôi khi sở hữu chiếc Junghans Chronometer đặc biệt này.
Xin chúc mọi người sẽ có thêm hiểu biết trong cuộc chơi đầy thú vị này và lựa chọn được thương hiệu cũng như chiếc đồng hồ yêu thích! Hy vọng bài viết sẽ được đón nhận và chia sẻ đến với nhiều anh em đam mê đồng hồ.
Tôi có mong muốn xây dựng một cộng đồng chơi đồng hồ ở Việt Nam văn minh, quy tụ những người chơi đồng hồ trong cả nước, hiện đã có rất nhiều người chơi rất sâu tham gia vào Group.
Group trên facebook mang tên “Cộng Đồng Chơi Đồng Hồ Việt Nam:All Brands”. Bạn chỉ cần click vào tên Group trong bài viết này để tham gia Group miễn phí. Mọi người hãy đọc nội quy Group để sinh hoạt được tốt nhất nhé!
You May Also Like

Lật Mở 7 Pha “Đốt” Tiền “Khó Hiểu” Của Dân Chơi Đồng Hồ Cổ Và Ý Nghĩa Sâu Sắc Bên Trong
June 11, 2022
Hebdomas 8 Jours – Đồng hồ nổi tiếng với “chu kỳ 8 ngày”
February 15, 2020